TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA (1918-1973)
Thứ Tư, 19 tháng 7, 2017
TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA (1918-1973)
I. – VÀO ĐỀ:

Trong thời kỳ nô lệ Pháp quốc, đất nước Việt
Nam đã có những nhà cách mạng cứu quốc thì Phật Giáo Việt
Nam cũng có những bậc Thạch Trụ siêu phàm đứng ra vận
động chấn hưng. Riêng trong phong trào chấn hưng Phật Giáo
Việt Nam, các bậc Long Tượng tiếp nối ra đời làm sáng ngời lịch
sử Phật Giáo phục hưng, nhất là trong thời kỳ cận đại,
những tấm gương sáng chói của phong trào phục hưng trong
đó có Hòa Thượng Thích Thiện Hoa. Hòa Thượng là người xuất
thân từ miền tây Nam Bộ sông nước hữu tình, có học lực, có
tài cao, có chí lớn, có đức tánh hiền hòa điềm đạm, sống bình dị thân
thương, nhiệt tình yêu nước mến đạo, linh động hòa hợp dung
thông cho đại sự và nhờ đó Phật Giáo Việt Nam từ đấy
trở nên sáng ngời khắp bầu trời miền Nam
II. – VỀ THÂN THẾ:
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa con nhà gia giáo thuộc hạng
trung lưu, trong gia quyến ai nấy đều theo đạo Phật. Hòa
Thượng húy là Trần Thiện Hoa, pháp danh là Thiện Hoa, hiệu là
Hoàn Tuyên, sanh ngày 07 tháng 08 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Qui (sau đổi
tên là An Phú Tân), huyện Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (sau đổi tên là tỉnh Trà Vinh). Hòa
Thượng là con út (thứ chín) trong gia đình tám anh chị em.
Vì quy y PhậtGiáo từ thuở ấu thơ, Hòa Thượng lấy pháp danh làm
thế danh, cho nên mới có tên là Trần Thiện Hoa. Thân phụ là cụ ông
Trần Văn Thế pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu là cụ bà
Nguyễn Thị Sáu pháp danhDiệu Tịnh. Toàn thể gia đình của Hòa
Thượng đều quy y với Tổ Chí Thiền chùa Phi Lai ở núi
Voi, tỉnh Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa là Tổ đặt cho Hòa Thượng.
Sau khi thân phụ quá cố, Hòa Thượng theo thân
mẫu đi chùa Phước Hậu, làng Đông Hậu, huyện Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ làm
lễ kỳ siêu bảy tuần thất cho cha, sau đó Hòa Thượng quyết tâm xin
mẹ cho ở lại chùa Phước Hậu xuất gia và được cụ bà đồng ý,
năm ấy Ngài mới được 7 tuổi. Tiếp đến Hòa Thượng được gởi tới chùa
Đông Phước, làng Đông Thành, huyện Cái Vồn (hiện giờ là huyện Bình Minh),
tỉnh Cần Thơ theo tu học với Tổ Khánh Anh và được Tổ đặt cho pháp
hiệu là Hoàn Tuyên.
Trong gia đình chẳng những một mình Hòa
Thượng xuất gia, mà trước đó vài năm người chị thứ bảy đã xuất gia lúc
17 tuổi chính là Sư Bà Thích Nữ Diệu Kim, trụ trì chùa
Bảo An tại tỉnh thành Cần Thơ. Người anh thứ tám đồng thời xuất gia với
Tổ Khánh Anh được Tổ đặt cho pháp danh là Tịnh Tâm (có chỗ
gọi là Thiện Tâm), pháp hiệu là Hoàn Tâm cùng họ Hoàn với Hòa
Thượng Thiện Hoa, trụ trì chùa Phật Quang tại rạch
Bang Chang, xã Thiện Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ. Tiếp theo người
anh thứ năm cũng xả tục xuất gia với pháp danh là Thiện
Minh, trụ trì chùa Linh Quang tại Rạch Sung, Trà Ôn. Sau
này lại cũng có những người cháu kêu Hòa Thượng bằng chú như Tịnh
Nghiêm, Tịnh Thuận và kêu bằng cậu như Bửu Châu, Hoàn Phú cũng lần lượt xuất
gia. Có thể nói rằng đây là một gia đình có nhiều người xuất gia hạng
nhất trong vùng.
III. – THỜI KỲ TU HỌC:
a) Tham Học Các Trường Gia Giáo:
Sau khi cầu pháp với Tổ Khánh Anh, Hòa
Thượng được Tổ dẫn theo cho tham học với các lớp Gia Giáo là
những nơi mà Tổ được mời giảng dạy, khởi đầu từ lớp Gia Giáo chùa
Đông Phước và sau cùng là lớp Gia Giáo chùa Long An. Về chùa Long An
ở Đồng Đế, huyện Trà Ôn, Tổ Khánh Anh lãnh chùa nầy vào năm 1931 và khai giảng
lớp Gia Giáo tại đây. Lúc ấy Hòa Thượng mới có 14 tuổi
và nhập chúng tu học nơi lớp Gia Giáo nói trên được 3
năm.
b) Tham Học Phật Học Đường Lưỡng Xuyên:
Để đạt chí nguyện cao cả trên con đường hoằng
pháp lợi sanh của một tu sĩ, vào năm 1935, nhân Phật Học Đường
Lưỡng Xuyên khải giảng vào đầu mùa hạ, Hòa Thượng được Tổ Khánh
Anh cho theo tòng học nơi Phật Học Đường này, bấy giờ Hòa
Thượng đã được 17 tuổi và ngay năm ấy Hòa Thượng thọ giớiSa Di tại Phật
Học Đường nói trên. Sau khi mãn khóa lớp Sơ Đẳng 3 năm, với ý
chí hiếu học và óc cầu tiến, Hòa Thượng cùng một số Tăng sinh
khác được Ban Giám Đốc Phật Học Đường Lưỡng Xuyên chấp thuận giới
thiệu ra Huế tiếp tục tu học theo sở cầu. Thế là năm
1938, Hòa Thượng được ra Huế tu học, lúc đó Ngài 20 tuổi. Cùng
đi với Hòa Thượng ra Huế gồm có sáu Tăng sinh khác như, Hòa
Thượng Thiện Hòa, Hiển Thụy, Hiển Không, Chí Thiền, Bửu Ngọc, Giác
Tâm.
c) Tham Học Phật Học Đường Báo
Quốc:
Sau khi ra Huế, Hòa Thượng cùng sáu Hòa
Thượng khác tòng học tại Phật Học Đường Tây Thiên hai
năm. Kế đến quý Hòa Thượng vào chùa Long Khánh, Qui Nhơn tham
học Phật Pháp với Tổ Phước Huệ ở chùa Thập Tháp hết một năm
tròn. Sau đó quý Hòa Thượng lại trở ra Huế lần nữa tham dự lớp
học tại Phật Học Đường Báo Quốc ngót bốn năm. Đến năm 1945, Phật
Học Đường Báo Quốc dời đến Tòng Lâm Kim Sơn và
lớp học tại đây vừa mãn một năm thì chiến tranh tràn đến, cho nên Phật Học Đường Kim
Sơnngưng hoạt động. Hội An Nam Phật Học ủy thác cho
quý Hòa Thượng Thiện Hoa và Trí Tịnh. . v. . v... . mang một số học
Tăng vào Nam. Thế là suốt tám năm dài (1938–1945), Hòa Thượng cùng
quý Hòa Thượng khác nhọc nhằn cần mẫn học tập nơi đất Thần
Kinh. Sau đó quý Hòa Thượng trở về miền Nam mang một hoài
bảo “Hoằng Pháp Lợi Sanh”, để rồi miền Nam bừng sáng Chánh
Pháp do các Hòa Thượngcùng nhau mồi lên ngọn đuốc từ cố đo Huế.
IV. – THỜI KỲ HÀNH ĐẠO:
Theo quan niệm của Hòa Thượng Thiện
Hoa, muốn phục hưng Phật Giáo cho được hữu hiệu trước hết phải
có cán bộ để hoằng pháp, vì lý do đó, sau khi về miền Nam, Hòa
Thượng nhất quyết phải thành lậpPhật Học Đường để đào
tạo Tăng tài mới có người tiếp nối sự nghiệp hoằng dương
chánh pháp.
1) Khai Giảng Phật Học Đường Phật Quang:
Để đạt được ước nguyện của mình, đầu
tiên vào năm 1945, Hòa Thượng hợp tác cùng Hòa Thượng Trí
Tịnh khai giảng Phật Học Đường Phật Quang tại rạch
Bang Chang, xã Thiện Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ, là cơ sở của Thượng
Tọa Hoàn Tâm lãnh đạo. Số Tăng sinh đến tu học trên 30 vị.
Đến năm 29 tuổi, Hòa Thượng Thiện Hoa mới thọ giới Tỳ Kheo và Bồ
Tát tại Giới Đàn chùa Kim Huê, Sa Đéc. Năm 1946 và 1947, thấy tình
cảnh chiến tranh của đất nước càng ngày càng tăng và thấy Tăng sĩ một phần
đã cởi áo Cà Sa mặc áo chiến bào, Hòa Thượng Trí Tịnh quyết
định dời về Sái Gòn.
Lúc bấy giờ Phật Học Đường Phật Quang chỉ
còn lại một mình Hòa Thượng Thiện Hoa gánh vác tất cả
mọi Phật sự, vì thế Phật Học Đường này đã khó khăn lại gặp khó
khăn hơn. Một mình Hòa Thượng vừa dạy học, vừa lo đối phó với hoàn
cảnh.
a. – Đối Nội: Hòa Thượng vẫn kiên trì giữ
vững lớp học. Dù gặp nhiều gian nguy, nào chùa bị đốt, nào chúng bị phân tán, Hòa
Thượng vẫn thản nhiên cố duy trì phần còn lại. Hòa
Thượng nói: “Dù chỉ còn một Tăng sinh hiếu học tôi vẫn dạy đầy đủ như lúc
ba mươi người.” Quả thật, đến năm 1950, Học chúng chánh thức của Phật
Học Đường Phật Quang không quá bốn người. Thế nhưng Hòa Thượng vẫn
dạy đều đều theo khóa trình đã vạch sẵn như thuở trước.
b. – Đối Ngoại: Trong xã hội loạn lạc thời
bấy giờ, nhằm bảo bọc Tăng chúng yên tâm tu học, Hòa Thượngmở
các lớp học trẻ con giao cho Tăng sinh đảm trách, đồng thời mở trạm y
tế giao cho Tăng Ni thay nhau thuốc men giúp đỡ đồng bào. Mỗi ngày
buổi sáng Tăng chúng dạy học, chích thuốc và buổi chiều học tập kinh
điển. Hòa Thượng lại mở thêm những lớp học “Bình Dân” ban đêm dạy chữ
Quốc Ngữ cho dân chúng thất học để chống nạn mù chữ. Học viên đạt
được kết quả nhanh chóng là nhờ Hòa Thượng có sáng kiến soạn ra
tập sách “Vần Chữ O”. Hòa Thượng bảo học chúng rằng: “Chúng ta
cần đem Tứ Nhiếp Pháp và Ngũ Minh để giáo hóa chúng
sanh, nhất là trong hoàn cảnh này.”
2) Cộng Tác Phật Học Đường Nam Việt Ấn
Quang:
Đầu mùa Xuân năm 1953, vào ngày mùng 8 tháng
Giêng Âm Lịch, Hòa Thượng cùng hàng đệ tử mang hành lý lên
đường đi Sài Gòn đến Phật Học Đường Nam Việt Ấn Quang (trong
số đó có thầy Thích Thanh Từ). Sau cuộc họp của Giáo Hôïi Tăng Già Nam
Việt, quý Hòa Thượng đã đồng tình đề cử Hòa ThượngThiện Hoa giữ
chức vụ Trưởng Ban Giáo Dục kiêm Trưởng Ban Hoằng Pháp Giáo
Hội Tăng Già Nam Việt và luôn cả chức Đốc Giáo Phật Học Đường
Nam Việt chùa Ấn Quang, Sài Gòn.
3) Sự Nghiệp Giáo Dục:
Với trách nhiệm Đốc Giáo Phật Học Đường
Nam Việt, Hòa Thượng đã tận tâm giảng dạy cho hai cấp nơi
trường này: một lớp Cao Đẳng và một lớp Trung Đẳng. Đồng thời Hòa
Thượng cũng dạy lớp Trung ĐẳngNi Chúng tại chùa Từ Nghiêm,
sau dời về Phật Học Ni Trường Dược Sư. Kết quả sự giáo dục
như sau:
a) Tại Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn
Quang, lớp Cao Đẳng và lớp Trung Đẳng gồm những Tăng sinh say đây
từng tự ra trường:
* Đợt thứ nhất lớp đầu tiên gồm có: Thầy Bửu Huệ,
Thiền
Tâm, Tắc Phước, Tịnh Đức và Đạt Bửu.
* Đợt thứ hai tiếp nối ra trường gồm có:
Thầy Thiền Định, Huyền Vi, Thanh Từ, Từ Thông, Chánh Tiến, Quảng
Long, Hoàn Quan, v. v...
* Đợt thứ ba ra trường gồm có: Thầy Thắng Hoan, Đức
Niệm, Liễu Minh, Như Huệ, Chơn Phát, Trí Quảng, Đồng Quy, Long
Nguyệt, v. v...
* Đợt thứ tư ra trường gồm có: Thầy Nhựt
Quang, Huệ Thới, Minh Thành, v. v...
b) Tại Ni Trường Dược Sư, các Ni Chúng ra
trường gồm có: Sư cô Như Huyền, Hải Triều Âm, Diệu Hoa,
Minh Ngọc, Giác Nhẫn, Trí Hòa, Trí Định, Tịnh Thường, v. v...
Số lượng Tăng Ni sinh tốt nghiệp từ hai
trường nói trên đều là những vị xuất sắc sau này phụ lực với Hòa Thượng tiếp
nối đảm đang các Phật sự của Giáo Hội cũng như
công tác hoằng pháp và giáo dục.
c) Đến năm 1957, Hòa Thượng lại chủ
xướng mở những khóa huấn luyện trụ trì lấy tên là Như Lai
Sứ Giả. Trung tâm huấn luyện cho Tăng giới thì đặt tại chùa Pháp
Hội và Trung tâm huấn luyện cho Ni giới thì đặt tại
chùa Dược Sư. Mỗi khóa ba tháng trong mùa hạ và mùa đông.
Kết quả:
* Bên Tăng đã đào tạo được 52 vị gồm có:
Thầy Trường Lạc, Bửu Lai, Trí Châu, Nhật Long, Hồng Tịnh, Hoằng
Thông, Huyền Quý, Hiển Pháp, Thiện An, Huệ Thành, v. v...
* Bên Ni đã đào tạo được 30 vị gồm
có: Ni sư Vĩnh Bửu, Như Hoa, Phật Bửu, Giác Thiên, Như Huy, Như
Chí, v. v...
Những vị tốt nghiệp các khóa huấn luyện này được bổ về
các chùa khắp lục tỉnh để tập sự hoằng pháp. Phong trào này làm
dấy lên phong trào tu học của các tín đồ Phật tử và
cũng là mơ ước của mọi Tăng Nimuốn trở thành sứ giả Như Lai.
d) Với trách nhiệm Trưởng Ban Giáo Dục trong Giáo
Hội Tăng Già Nam Việt, Hòa Thượng đã khuyến khích mở trường Phật
Học ở các tỉnh như: Trường Phật Học tại chùa Bình An, Long
Xuyên (1956), Trường Phước Hòa ở Vĩnh Bình, Trường Giác Sanh
ở Phú Thọ, Chợ Lớn, Trường Phật Học ở Biên Hòa và Trường Phật Ân
ở Mỹ Tho. . v. . v... . . Hầu hết Tăng Ni miền Nam đương thời dù gián
tiếp hay trực tiếp đều chịu ân huệ giáo dục ít nhiều của Hòa
Thượng.
e) Đến năm 1956, Hòa Thượng được Tổng Hội Phật
Giáo Việt Nam đề cử với chức vụ Ủy Viên Hoằng Pháp của Tổng Hội.
Ở ngôi vị này, Hòa Thượng đầu tiên thực hiện những dự
án sau đây do Hòa Thượngchủ trương:
* Hợp tác với Hòa Thượng Nhất Hạnh xuất
bản nguyệt san “Phật Giáo Việt Nam”.
* Lập nên nhà xuất bản Phật Giáo lấy tên là
“Hương Đạo”.
* Chủ trương một “Phật Học Tùng Thư” để phổ biến những tác
phẩm của Hòa Thượng.
4) Công Trình Hoằng Pháp:
Với trách nhiệm Trưởng Ban Hoằng Pháp Giáo
Hội Tăng Già Nam Việt và Hội Phật Học Nam Việt, Hòa
Thượng đích thân huấn luyện Tăng Ni sinh tại các Phật Học Đường
để trở thành những giảng sư thật sự có thể đi diễn giảng
các nơi. Ngoài ra Hòa Thượng còn mở các lớp giáo lý giảng
dạy Phật Học Phổ Thôngcho hàng Phật tử cư sĩ để họ có
khả năng truyền đạt Phật Pháp cho thế hệ cư sĩ mai
sau tại các trụ sở như chùa Ấn Quang (Trụ sở GHTGNV), chùa Phước
Hòa (Bàn Cờ), chùa Xá Lợi (Trụ sở HPHNV), chùa Giác Tâm (Chi
Hội Phật Học tỉnh Gia Định), chùa Dược Sư (Trụ sở Hội Phụ
Nữ Phật Tử). . v. . v... . Tiếp theo Hòa Thượng còn đích
thân giảng dạy Phật Tử hằng tuần vào tối thứ năm tại chùa Ấn
Quang. Nhờ vậy phong trào học Phật miền Nam trỗi dậy như vũ bão,
khắp các tỉnh Giáo Hội và Hội Phật Học đều gởi thơ về Trung
Ương xin mở lớp Phật Học Phổ Thông tại trụ sở của mình. Để đáp
ứng nhu cầu các nơi, Hòa Thượng phân phối Giảng Sư đến
giảng dạy Phật Học Phổ Thông mỗi chỗ mười hôm và mỗi năm hai kỳ.
Cứ như thế suốt tám năm trời (1955–1962), tinh thần Phật Giáo len
lỏi vào tâm hồn người con Phật khắp nơi trở thành phong
trào thi đua tu học. Hơn nữa Hòa Thượng còn tổ chức Phật
Giáo hằng tuần trên đài Phát Thanh Sài Gòn để phổ biến giáo lý, tin
tức Phật sự Giáo Hội, sinh hoạt Học Đường và lập
trườngchấn hưng Phật Giáo Việt Nam.
5) Công Tác Từ Thiện Xã Hội:
Ngoài Phật sự trọng đại của Giáo
Hội, Hòa Thượng còn để tâm đến phương diện Từ
Thiện Xã Hội. Trước hết Hòa Thượng cố vấn cho Ban Từ
Thiện Ấn Quang trong mọi công tác xã hội từ đô thành Sài
Gòn lan đến các tỉnh miền tây Nam Việt. Tiếp theo Hòa Thượng thúc
đẩy thành lập Cô Nhi Viện Diệu Quang để làm cơ sở cho Ni
chúng trẻ tuổi công tác xã hội. Kế đến Hòa Thượng vận động thành
lập Niệm Phật Đường trong khám Chí Hòa và còn cất chùa trong Dưỡng
Trí Viện Biên Hòa. . v. . v... . Có thể nói, mọi Phật sựmiền Nam đều được Hòa
Thượng trợ giúp, hoặc trực tiếp hay gián tiếp.
V. – THỜI KỲ PHÁP NẠN:
Thời kỳ Pháp nạn năm 1963, để chống lại sự áp
bức của chế độ Ngô Đình Diệm, Hòa Thượng đã tích cựcđấu
tranh cho Phật Giáo với chức vụ Phó Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái Bảo
Vệ Phật Giáo. Với uy tín sẵn có, Hòa Thượng kêu gọi Tăng
Ni và Phật Tử miền Nam đứng lên bảo vệ Đạo Pháp và
đã được sự đáp ứngnồng nhiệt của Tăng Ni, Tín Đồ khắp nơi
đấu tranh kiên trì cho đến ngày thành công. Cuộc đấu tranh
sau khi thành công, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra
đời. Nhiệm kỳ I của Viện Hóa Đạo, Hòa Thượng nhận chức Đệ Nhất
Phó Viện Trưởng, kế đến nhận chức Trụ Trì Việt Nam Quốc Tự.
Trong thời gian này Hòa Thượng vận động thành lập Phật
Học Viện Huệ Nghiêm và đề cử Hòa Thượng Bửu Huệ làm Giám
Đốc để tiếp nối sự nghiệp giáo dục đào tạo tăng tài mà Hòa
Thượng chủ trương.
Sau Pháp nạn năm 1966, Hòa Thượng đảm nhận chức
Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN. Trong nhiệm kỳ II này, con thuyền Phật
Giáo Việt Nam gặp nhiều sóng gió. Thế nhưng Hòa Thượng vẫn
nắm vững tay lái hướng thẳng theo con đường bảo vệ Đạo Pháp và
cứu nước cứu dân, lấy sự tồn tại của đạo pháp trong sự tồn
tại của dân tộc và nhân loại làm ngọn hải đăng.
Đến nhiệm kỳ III của Viện Hóa Đạo năm 1968, Hòa
Thượng được toàn thể đại biểu bỏ thăm lưu nhiệm chức Viện
Trưởng Viện Hóa Đạo. Lúc bấy giờ căn bệnh của Hòa Thượng bộc
phát càng tăng mà trách nhiệm Giáo Hội càng nặng nề, nhưng
Ngài không nệ hà vẫn gánh lấy trách nhiệm của Giáo Hội giao
phó. Hòa Thượng tuyên bố với các môn đồ rằng: “Tôi đặt
đời tôi làm ba giai đoạn, giai đoạn thứ nhất chuyên học Phật Pháp, giai
đoạn thứ hai nỗ lực truyền bá, giai đoạn thứ ba tịnh dưỡng chuyên
tu. Nhưng Đạo Pháp đang trong thời kỳ sóng gió, mọi
người đang tin cậy tôi, tôi đâu nỡ buông tay để về ngồi yên tịnh
dưỡng.” Thế nhưng Hòa Thượng trước khi viên tịch, Ngài còn có
những lời giáo huấn cho môn đồ pháp quyến vô cùng quý
giá như nói: “Môt con trâu cũng tốn một thằng chăn, cả bầy trâu cũng chỉ một
thằng chăn. Tại sao khuôn mình trong chỗ hẹp mà quên việc lớn?” Khi trả
lời Sư Bà Bảo An, Hòa Thượng đáp: “Gánh vác Phật sự là
việc tốt, nhưng khi lãnh nhiệm vụ lớn, phải tự xem mình như đứa con
nít. Dù bị người chê khen khinh trọng vẫn không nao núng. Đừng nhớ mình có chùa
to, có đệ tử nhiều, gặp việc trái ý là xách gói về chùa. Tâm
niệm được như thế, mới nên đảm đang đại sự.”
VI. – GIAI ĐOẠN VIÊN TỊCH:
Hòa Thượng khởi bệnh từ tối đêm 17 tháng 11 năm
Canh Tý, sau ngày lễ vía Đức Phật A Di Đà, Ngài được đưa vào bệnh
viện Đồn Đất điều trị. Bác sĩ cho biết bệnh của Hòa
Thượng cần phải giải phẫu. Hòa Thượng thường nói với các đệ
tử thăm viếng: “Nếu kỳ đau này tôi phải chết, tôi rất hài lòng, vì
đối với sự hoằng hóa tôi đã làm tròn nhiệm vụ. Đối với Đạo Pháp tôi
đã gánh vác được một giai đoạn khó khăn.”
Sau khi giải phẫu, bệnh của Hòa Thượng càng
ngày càng nhẹ, ai cũng tin tưởng Hòa Thượng không bao lâu sẽ bình
phục trở về chùa. Phóng viên báo Điện Tín đến vấn an và hỏi Hòa
Thượng cảm nghĩ gì trong thời gian ở bệnh viện. Hòa Thượng đáp:
“Tôi không mong ước gì hơn sớm có ngưng bắn, để cho dân tộc Việt
Nam được hưởng một mùa Xuân thanh bình.” Một hôm, khi Hòa
Thượng Thiện Hòa vào thăm, Hòa Thượng giao phó cho Hòa
Thượng Thiện Hòa đảm trách mọi công việc Phật sự còn đọng lại.
Bất thần ngày 17 tháng 12 âm lịch, Hòa
Thượng trở bệnh lại. Đến đêm 19 tháng 12 âm lịch, Hòa Thượngthấy
mệt, biết mình không qua khỏi, gọi các môn đệ đến bảo: “Các
con niệm Phật cho Thầy vãng sanh, Thầy mệt quá rồi.” Cho
đến sáng ngày 20 tháng Chạp năm Nhâm Tý, nhằm ngày 23 tháng Giêng năm
1973, Hòa Thượng đã an lành viên tịch, thọ 55 tuổi đời và
26 tuổi hạ. Sự ra đi của Hòa Thượng đối với Ngài đã tròn nghĩa vụ,
nhưng để lại cho hàng Giáo Phẩm trong Giáo Hội bao nhiêu niềm mến
tiếc. Hàng Tăng Ni cảm thấy bơ vơ hết chỗ nương tựa, hàng Phật
Tử mất đi một bậc Thầy hiền quý kính. Ngôi nhà Đạo Pháp đã thiếu
đi một cây Thạch Trụ chống đỡ!
VII. – NHỮNG TRƯỚC TÁC VÀ PHIÊN DỊCH:
Từ năm 1953 đến năm 1965, Hòa Thượng trước
tác và phiên dịch rất nhiều tác phẩm làm nền tảng học Phật
cho Tăng Ni và tín đồ Phật Giáo. Những danh mục lớn
như sau:
a) Về Phần Trước Tác:
– Phật Học Phổ Thông (12 quyển) cũng
gọi là Cây Thang
Giáo Lý.
– Bản Đồ Tu Phật (10 quyển)
– Bài Học Ngàn Vàng (8 quyển)
– Nghi Thức Tụng Niệm.
– Đại Cương Kinh Lăng Nghiêm.
– Lược Giải Kinh Viên Giác.
– Phật Học Giáo Khoa các trường Bồ Đề.
– Giáo Lý dạy Gia Đình Phật Tử.
– 50 Năm Chấn Hưng Phật Giáo.
– Phật Giáo Việt Nam Ngày Nay.
– Tám quyển sách quý gồm có: Tu Tâm, Dưỡng
Tánh, Nhân Quả Luân Hồi, Ngũ Đình Tâm Quán, Tứ Diệu Đế, Từ
Bi Trong Đạo Phật, Chữ Hòa Bình Trong Đạo Phật, và Năm Yếu
Tố Hòa Bình.
– Tạp Luận.
– Sự Tích, v. v...
b) Về Phần Phiên Dịch:
* Duy Thức Học (6 quyển)
* Kinh Kim Cang
* Tâm Kinh
* Luận Đại Thừa Khởi Tín.
* Luận Nhân Minh.
Tổng cộng những tác phẩm phiên dịch và
trước tác là 80 quyển trong đó chia ra có 8 loại chuyên đề.
VIII. – KẾT LUẬN:
Xuyên qua quá trình tu học và hành
đạo của người, Hòa Thượng Thích Thiện Hoa đích thực là một vĩ
nhân phi phàm, có ý chí phi thường, có những hành động phi
thường, can đảm đứng trước những phong ba bảo táp của thời đại, bình
tĩnh vượt qua những gian lao thử thách của thói đời,
khôn khéo lèo lái con thuyền Phật Giáo cập được bến bờ vinh
quang. Hòa Thượng đã tô điểm những nét son sáng ngời trong
lịch sửPhật Giáo Việt Nam cận đại.
Ngoài việc suốt
đời hy sinh cho đạo pháp, hết mình hiến thân cho đạo
pháp và quên mình phục vụ cho đạo pháp, Hòa
Thượng còn lưu lại những dấu ấn vĩ đại, trong đó chứa đựng cả công
trình bất hủ và cả tâm huyết sâu đậm cho công cuộc chấn hưng Phật
Giáo Việt Nam mà chính Ngài đã tạo dựng. Hòa Thượngcòn có những di
ngôn giáo huấn quý giá trong đó có một di ngôn xứng đáng
khuôn vàng thước ngọc cho chúng ta chọn lấy làm phương châm lãnh
đạo: “Gánh vác Phật sự là việc tốt, nhưng khi lãnh nhiệm vụ lớn,
phải tự xem mình như đứa con nít. Dù bị người chê khen khinh trọng vẫn không
nao núng. Đừng nhớ mình có chùa to, có đệ tử nhiều, gặp việc trái ý
là xách gói về chùa. Tâm niệm được như thế, mới nên đảm đangđại
sự.” Điều đặc biệt, con người của Hòa Thượng tràn đầy
tấm lòng bao dung, hòa ái, khiêm cung trong mọi lãnh vực hoạt
động, nhưng rất cương nghị trong đường lối lãnh đạo và sáng suốt chỉ
đạo theo đúng mục tiêu mà Hòa Thượng đã vạch ra, dù
khó khăn đến mấy cũng quyết thực hiện cho được thành công. Và Hòa
Thượng đã thành công rực rỡ trong tiến trình thực hiện sứ
mạng của một sứ giả Như Lai, để lại cho đời sau một niềm
kính mến vô biên và mãi mãi khắc ghi trong lòng ơn đức sâu
dầy của Hòa Thượng.
Theo thuvienhoasen
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét