Tiểu sử Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Thứ Hai, 22 tháng 5, 2017
TIỂU SỬ THIỀN
SƯ THÍCH NHẤT HẠNH
Thích
Nhất Hạnh là một thiền sư, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu, nhà hoạt
động xã hội, và người vận động cho hòa bình. Ông sinh ra ở Thừa Thiên-Huế, miền
Trung Việt Nam, vào ngày 11 tháng 10 năm 1926, xuất gia theo Thiền tông vào năm
16 tuổi, trở thành một nhà sư vào năm 1949. Pháp hiệu “Thích” được sử dụng bởi
các nhà sư Việt Nam, nghĩa là họ là một phần của dòng tu Thích Ca. Ông là nhà
lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ hai ở phương Tây chỉ sau Đạt-lại
Lạt-ma. Ông là người đưa ra khái niệm “Phật giáo dấn thân” (engaged Buddhism)
trong cuốn sách Vietnam: Lotus in a Sea of Fire của ông.
Thiền sư
Thích Nhất Hạnh được sinh ra với tên húy là Nguyễn Xuân Bảo ở Thừa Thiên (miền
trung Việt Nam) vào năm 1926. Vào năm 16 tuổi ông xuất gia ở chùa Từ Hiếu gần
Huế, nơi ông thọ giáo với Thiền sư Thanh Quý Chân Thật. Tốt nghiệp Viện Phật
học Bảo Quốc ở miền Trung Việt Nam, Thích Nhất Hạnh tu học thiền theo trường
phái Đại thừa của Phật giáo và chính thức trở thành một nhà sư vào năm 1949.
Thích Nhất Hạnh bây giờ được công nhận là một thiền sư và là lãnh đạo tinh thần
của chùa Từ Hiếu và các tu viện liên quan khác. Ông là tổ của nhánh Từ Hiếu đời
thứ 8 của dòng Liễu Quán trong đời thứ 42 của phái thiền Lâm Tế Dhyana (Lin Chi
Chan 臨濟禪, hay Rinzai Zen trong tiếng Nhật). Vào ngày 1
tháng 5 năm 1966 tại chùa Từ Hiếu, Thiền sư Chân Thật trao ấn khả cho Thích
Nhất Hạnh để từ đây ông trở thành một thiền sư (thầy dạy về thiền). Thích Nhất
Hạnh đã phối hợp kiến thức của ông về nhiều trường phái thiền khác nhau cùng
với các phương pháp từ truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ, những nhận thức
sâu sắc từ truyền thống Phật Giáo Đại thừa, và vài phát kiến của ngành tâm lý
học đương đại phương Tây để tạo thành cách tiếp cận hiện đại của ông đối với
thiền. Thích Nhất Hạnh đã trở thành một người có ảnh hưởng quan trọng đến sự
phát triển của Phật giáo phương Tây.
Vào năm
1956 ông là Tổng biên tập của Phật giáo Việt Nam, tờ báo của Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống nhất. Vào thập niên 1960, ông thành lập Trường Thanh niên Phụng
sự Xã hội (School of Youth for Social Services – SYSS) ở Sài Gòn, một tổ chức
từ thiện xây dựng lại các làng bị bỏ bom, xây dựng trường học và các trạm xá,
và giúp các gia đình bị trở thành vô gia cư trong Chiến tranh Việt Nam. Ông
cũng là một trong những người thành lập Viện Đại học Vạn Hạnh và Nhà xuất bản
Lá Bối. Viện Đại học Vạn Hạnh trở thành một viện đại học tư thục danh tiếng tập
trung các nghiên cứu về Phật giáo, văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Nhất Hạnh dạy
giáo lý Phật giáo và Bát-nhã-ba-la-mật-đa (Prajnaparamita). Trong một buổi gặp
mặt vào tháng 4 năm 1965, đoàn sinh viên Vạn Hạnh đưa ra thông điệp “lời kêu
gọi vì hoà bình”. Nội dung chính của lời kêu gọi là “đã đến lúc hai miền
Bắc-Nam của Việt Nam họp lại để tìm một giải pháp chấm dứt chiến tranh và đem
lại cho mọi người Việt Nam cuộc sống hoà bình với lòng tôn trọng lẫn nhau”.
Ông đã
đến Hoa Kỳ nhiều lần để nghiên cứu và diễn thuyết tại Viện Đại học Princeton và
Viện Đại học Cornell, và sau này giảng dạy tại Viện Đại học Columbia. Mặc dầu
vậy, mục đích chính cho các chuyến đi ra nước ngoài (Mỹ và Âu Châu) của ông
trong thời gian này vẫn là để vận động cho hòa bình. Ông kêu gọi Martin Luther
King, Jr. công khai chống lại Chiến tranh Việt Nam, và thuyết giảng với nhiều
người và nhiều nhóm về hòa bình. Vào năm 1967, King đề cử Thiền sư Thích Nhất
Hạnh cho Giải Nobel Hòa bình. Nhất Hạnh dẫn đầu phái đoàn Phật giáo đến Đàm
phán hòa bình Paris. Là một trong những người thầy về Phật giáo ở phương Tây,
những lời dạy và các phương pháp thực hành của Thích Nhất Hạnh thu hút nhiều
người đến từ các quan điểm về tôn giáo, tâm linh và chính trị khác nhau. Ông
đưa ra cách thực hành “chánh niệm” (sự lưu tâm đúng đắn – Pali: Sati;
Sanskrit:smṛti स्मृति; tiếng Anh: mindfulness), thường được điều chỉnh cho phù hợp với
tri giác phương Tây.
Năm 1966,
ông lập ra Dòng tu Tiếp Hiện (“Tiếp” có nghĩa tiếp xúc, tiếp nhận, “Hiện'” có
nghĩa thực hiện; tên tiếng Anh là The Order of Interbeing, tiếng Pháp là
L’ordre de l’interêtre), và thiết lập các trung tâm thực hành và các thiền viện
khắp trên thế giới. Nơi cư ngụ của ông là Tu viện Làng Mai ở vùng Dordogne
thuộc miền Nam nước Pháp. Ông du hành khắp thế giới thuyết giảng và tổ chức các
khóa tu thiền. Sau nhiều năm không được phép quay về Việt Nam, ông được về lần
đầu tiên vào năm 2005. Nhất Hạnh vẫn tiếp tục các hoạt động vận động vì hòa
bình. Ông đã tổ chức các khóa tu thiền cho người Israel và người Palestine,
khuyến khích họ lắng nghe và học hỏi lẫn nhau; thuyết giảng kêu gọi các nước
đang tham chiến hãy đình chiến và đi tìm các giải pháp bất bạo động cho các mâu
thuẫn của họ; và tổ chức diễu hành hòa bình ở Los Angeles vào năm 2005 được
tham dự bởi hàng ngàn người.
Xem thêm: Vấn đáp với thiền sư Thích Nhất Hạnh
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét